Đối với một nhà Tâm lý học Nhân Văn, mô tả hành vi như vậy cho những tác nhân củng cố hoặc quá trình suy nghĩ vô thức là không chính xác. Tâm lý học Nhân Văn có những điểm chung với Tâm lý học Tích Cực, đó là cả hai đều nhấn mạnh các yếu tố làm cho cuộc sống có ý nghĩa và ngập tràn niềm vui.
Nhan sắc "học trò" Khánh Vân được kỳ vọng đăng quang Hoa hậu chuyển giới Việt Nam 2022. HHT - Nguyễn Đan Tiên là một trong những thí sinh đang thu hút đông đảo sự chú ý tại Miss International Queen Vietnam 2022. Mỹ nhân Gen Z được đánh giá là sở hữu gương mặt giống nữ diễn
Mục lục cuốn sách Nhân Tướng Học: Lời Mở Đầu Phần 1: Các Nét Tướng Trong Nhân Tướng Học Chương 1: Tổng Quát Về Khuôn Mặt — Tam Đình — Ngũ Nhạc — Tứ Đậu — Lục Phủ — Ngũ Quan — 13 Bô Vị Quan Trọng — 12 Cung Trong Tưóng Học — Trán Chương 2: Lông Mày Chương 3: Mắt Chương 4: Mũi Và Lưỡng Quyền Chương 5: Môi Miệng Và Khu Vực Hạ Đình Chương 6: Tai
Kho tài liệu Tâm lý học Published on Trung tâm Thư viện và Tri thức số, ĐHQGHN (Library and Digital Knowledge Center, Vietnam National University, Hanoi)
Ngành tâm lý học, các các bạn sẽ được nghiên cứu về những hiện tượng diễn ra trong quả đât nội trung khu của con tín đồ như lối suy nghĩ, hành vi, tư tưởng cùng cảm xúc. Nói bí quyết khác, khi tham gia học ngành chổ chính giữa lý, bạn sẽ được học cách đánh giá
HOTLINE Ms Thanh 0902 86 86 84 - Tư vấn tâm lý học đường được triển khai ở các cơ sở giáo dục phổ thông với các hoạt động: tư vấn, giáo dục kỹ năng, biện pháp ứng xử văn hóa, phòng chống bạo lực, xâm hại và xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện.
Trung tâm UNESCO Phát triển nhân văn (sau đây viết tắt là Trung tâm) là một tổ chức xã hội, hoạt động trên lĩnh vực tinh thần, trí tuệ nhằm phát triển nhân văn trong cộng đồng theo bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Yoga là chiếc chìa khoá vàng để mở tung cánh cửa dẫn tới sự bình an, tĩnh lặng và niềm vui sướng
yRIKb. Danh mục Tư liệu khác ... trình độ phát triển cao nhất của tâm lý người. Tạp chí Tâm lý học, số 1, 2,3/ Lê Đức Phúc. Một sự chuyển biến cơ bản trong tâm lý học hiện đại. Tạp chí Tâm lý học, số 1/ Lêônchiép. ... Tuyển tập tâm lý học. NXB Giáo dục, Hà Nội, Pêtrốpxki, Tâm lý học đại cương. NXB Giáo dục, Mátxcơva, 1986, bản tiếng Xtôlin, Tự ý thức của nhân cách. NXB Đại học Tổng ... Điômin. Các vấn đề lý luận nhân cách. NXB Trường Đại học Tổng hợp Mátxcơva, 1977, bảntiếng Đỗ Long. Nhân cách, những vấn đề đang đặt ra để tiếp tục nghiên cứu. Tạp chí Tâm lý học, số4/ 8 14,390 123
Danh mục Thạc sĩ - Cao học ... hơn - Học sinh tự học, tự nghiên cứu ở nhà thuận lợi hơn - Học sinh tham gia vào bài học sôi nổi hơn, mạnh dạn hơn trong việc bộc lộ kiến thức của chính mình Ứng dụng của tam ... trong dạy học một số môn học ở tiểu học, 10. Nguyễn Bá Kim, Phương pháp dạy học môn Toán, Nhà xu 11. Bùi Văn Nghị, Chuyên đề cao học vận dụng lí ... chương trình và quá trình dạy học 2. Phan Đức Chnh, Phm Văn Điều, Đỗ Văn H, Phan Văn Hp, Phm Văn Hùng, Phm Đăng Long, Nguyễn Văn Mậu, Đỗ Thanh Sơn, Lê Đình... 25 1,101 1
Tâm lý học nhân văn là một trong những trường phái tâm lý phổ biến được sử dụng rộng rãi với nhiều ứng dụng trong cuộc sống. Giống như tên gọi của chính mình, trường phái tâm lý học nhân văn tập trung các yếu tố vào con người. Lấy con người làm trung tâm và chủ đạo để xử lý các vấn đề liên quan. Vậy lịch sử và khái niệm của tâm lý học nhân văn là gì? Vai trò và ý nghĩa của tâm lý học nhân văn với cuộc sống hiện đại. CùngThanhbinhpsykhám phá về trường phái tâm lý học này trong bài viết dưới đây nhé. Tâm lý học nhân văn là gì? Tâm lý học nhân văn hay còn được gọi là tâm lý học lực lượng thứ ba kết hợp hai triết học lãng mạn và hiện sinh, và sự kết hợp này được gọi là tâm lý học nhân văn. Tâm lý học lực lượng thứ ba và Tâm lý học nhân văn cũng là một, nhưng ngày nay tâm lý học nhân văn đã trở thành tên gọi phổ biến hơn. Tâm lý học nhân văn hay còn được gọi là tâm lý học lực lượng thứ ba kết hợp hai triết học lãng mạn và hiện sinh Điểm chính của tâm lý học nhân văn là nó tập trung vào tính biệt loại của con người, vào cái phân biệt con người với các loài khác. Nó khác các loại tâm lý học khác bởi vì nó coi con người không chỉ như là một sinh vật được biến đổi bởi văn hóa và kinh nghiệm, nhưng như là một nhân vị, một thực thể biểu tượng có khả năng suy tư về hiện hữu mình, và có khả năng cho hiện hữu mình một ý nghĩa, một hướng đi. Kinget, 1975, Lịch sử hình thành tâm lý học nhân văn Vào đầu thập niên 1960, một nhóm nhà triết học do Abraham Maslow cầm đầu đã khởi xướng một phong trào được mệnh danh là tâm lý học lực lượng thứ ba. Các nhà triết học này cho rằng trường phái hành vi và trường phái phân tâm học, đã bỏ quên một số thuộc tính quan trọng của con người. Cái thiếu sót ở đây là những thông tin có thể giúp ta làm cho những người bình thường trở nên mạnh khỏe hơn, nghĩa là giúp họ đạt hết mức tiềm năng của họ. Điều cần thiết có một mô hình về con người nhấn mạnh tính độc đáo của họ và các khía cạnh tích cực hơn là tiêu cực của họ, và kiểu mô hình này chính là cái mà tâm lý học lực lượng thứ ba nhằm cung cấp. Tâm lý học lực lượng thứ ba ra đời vào những thập lỷ 70-80 của thế kỷ XX Mặc dù tâm lý học lực lượng thứ ba phổ biến trong các thập niên 1970 và 1980, nhưng lại bắt đầu mờ nhạt trong thập niên 1980. Tuy nhiên, giống như thuyết hành vi và phân tâm học, tâm lý học lực lượng thứ ba vẫn tiếp tục có ảnh hưởng lớn trong tâm lý học hiện đại. Xem thêm >>> Dịch Vụ Trị Liệu Tâm Lý Tại Nhà Ở TPHCM Các học giả nổi tiếng của tâm lý học nhân văn Abraham Maslow Một số người cho rằng Alfred Adley mới chính là nhà tâm lý học nhân văn đầu tiên. Do ông định nghĩa lối sống lành mạnh là lối sống phản ảnh một lượng lớn các mối quan tâm xã hội, và với ý niệm của ông về ngã sáng tạo. Ông nhấn mạnh rằng người ta trở thành con người thế nào chủ yếu là do sự chọn lựa cá nhân. Chắc chắn lý thuyết của Adler có rất nhiều điểm chung với các lý thuyết sau này gọi là nhân văn. Tuy nhiên, thường xuyên hơn, người ta nhìn nhận Abraham Maslow 1908-1970 là người có công làm cho tâm lý học nhân văn trở thành một ngành tâm lý học chính thức. Maslow sinh ngày 01 tháng 4 năm 1908 tại Brooklyn, New York. Ông là con trưởng trong 7 anh em mà cha mẹ là những người Do Thái di cư từ Nga sang Hoa Kỳ. Không gần gũi lắm với cha mẹ và là đứa bé Do Thái duy nhất trong thể bạn quan tâmHọc bằng lái mô tô bao nhiêu tiền?Học phí Hutech tăng bao nhiêu 1 năm?Tử vi cung Nhân Mã 2024 tiền bạcNgày nào chuyển về nhà mới 2023 may mắn?Năm 2023 này có phải là thời điểm tốt cho Nhân Mã? Ông rất cô đơn và nhút nhát, thường tìm sự ẩn nấu nơi sách vở và các cuộc tìm tòi tri thức. Ông là một học sinh xuất sắc ở Boys High School tại Brooklyn và tiếp tục lên học tại City College ở New York. Trong khi học ở City College, ông cũng chiều theo ý của cha ông muốn ông trở thành luật sự, nên đã theo học trường luật. Nhưng chán học luật, một điêm ông bỏ cả sách vở ở lớp và ra về. Sau một thời gian, ông vào học tại Đại học Wisconsin và tại đây ông đậu cử nhân năm 2930, thạc sĩ năm 1931, và tiến sĩ năm 1934. Abraham Maslow Khi là nghiên cứu sinh ở Wisconsin, Maslow trở thành sinh viên tiến sĩ đầu tiên của nhà tâm lý học thực nghiệm nổi tiếng Harry Harlow. Luận án tiến sĩ của Maslow viết về đề tài sự thiết lập quyền thống trị trong một quần thể khỉ. Ông nhận thấy quyền thống trị là do một sự tín nhiệm bên trong hơn là sức mạnh thể lý và sự nhân xét này đã ảnh hưởng tới lý thuyết sau này của ông. Maslow cũng nhận thấy rằng hành vi tính dục trong quần thể khỉ cũng liên quan đến quyền thống trị và sự phục tùng, và ông tự hỏi liệu hoạt động tính dục của cong người có giống như thế không. Năm 1951 ông chấp nhận chức trưởng khoa tâm lý học ở Đại học Brandeis ở Waltham, Massachusetts. Và chính tại đây Maslow trở thành nhân vật hàng đầu của phong trào tâm lý học nhân văn. Chủ yếu nhờ vào cố gắng của Maslow, Tạp chí Tâm lý học nhân văn được ra đời năm 1961; Hội các nhà Tâm lý học Nhân văn Hoa Kỳ ra đời vào năm 1962; và một ngành của Hội Tâm lý học Hoa Kỳ, gọi là ngành Tâm lý học Nhân văn được sang lập vào năm 1971. Các đề cương của Tâm lý học nhân văn Theo Maslow các nhà tâm lý học hoạt động trong mẫu tâm lý học nhân văn có các niềm tin cơ bản sau Không có nhiều điều gía trị có thể học hỏi được từ việc nghiên cứu loài vật. Thực tại chủ quan là hướng dẫn hàng đầu cho việc nghiên cứu hành vi con người. Nghiên cứu các cá nhân mang lại nhiều thông tin hơn nghiên cứu những điểm chung của các tập thể. Cần có cố gắng đặc biệt để khám phá những điều làm mở mang hay làm giàu cho kinh nghiệm con người. Nghiên cứu phải tìm các thông tin giúp giải quyết các vấn đề con người. Mục tiêu của tâm lý học phải là hình thành một mô tả đầy đủ về ý nghĩa của hiện hữu con người là gì. Mô tả này phải bao gồm tầm quan trọng của ngôn ngữ, quy trình đánh giá, phạm vi đầy đủ các cảm xúc, và cách thức mà con người tìm kiếm và đạt đến ý nghĩa cuộc đời của họ. Thứ bậc các nhu cầu của con người Theo Maslow, các nhu cầu con người được sắp đặt theo một thứ bậc. Các nhu cầu càng thấp trong thứ bậc, chúng càng cơ bản và càng giống với các nhu cầu của loài vật. Các nhu cầu càng cao trong thứ bậc, chúng càng đặc trưng cho con người. Tháp nhu cầu của Maslow Các nhu cầu được sắp đặt sao cho khi người ta thỏa mãn một nhu cầu thấp hơn, người ta có thể xử lý một nhu cầu cao hơn. Thứ bậc các nhu cầu của Maslow có thể tóm tắt trong biểu đồ dưới đây Tự thể hiện mình Maslow hiểu sự tự thể hiện mình có nghĩa là đạt đầy đủ tiềm năng con người Các nhạc sĩ phải làm nhạc, các họa sĩ phải vẽ, các thi sĩ phải viết nếu họ muốn cảm thấy hài long với chính mình. Con người có thể là gì thì họ phải là như thế. Họ phải là đúng với bản tính họ. Nhu cầu này chúng ta có thể gọi là nhu cầu tự thể hiện mình. Khái niệm về sự tự thể hiện mình đã bắt nguồn ít là từ thời Aristotle, nhưng Aristotle hiểu sự tự thể hiện mình là khuynh hướng bẩm sinh biểu hiện các tính chất hay yếu tính của một loài. Với khái niệm tự thể hiện, cả Jung, Maslow và Rogers có ý nói tới sự thể hiện tiềm năng của một cá nhân, không phải tiềm năng của loài như lối hiểu của Aristotle. Vì không ai có thể đạt tới đầy đủ tiềm năng của mình, nên Maslow cho rằng người tự thể hiện mình là người đã thỏa mãn thích đáng bậc thang các nhu cầu. Và ông đã liệt kê các tính chất của những người được xem là đã tự thể hiện mình như sau Họ nhận thức thực tại chính xác và đầy đủ. Họ rất biết chấp nhận mình và người khác. Tỏ ra có sự tự nhiên và tự phát. Có nhu cầu riêng tư. Có khuynh hướng độc lập với môi trường và văn hóa. Có sự đánh giá liên tục đổi mới. Định kỳ có các kinh nghiệm thần bí hay tột đỉnh. Quan tâm tới mọi người thay vì chỉ quan tâm tới bạn bè hay người thân của họ. Thường chỉ có ít bạn thân. Có một tinh thần đạo đức mạnh nhưng không nhất thiết chấp nhận đạo đức truyền thống. Có óc khôi hài rất phát triển nhưng không mang tính thù nghịch. Có óc sáng tạo. Tuy Maslow kết luận rằng loại người này là những con người xuất chúng, ông cũng cho thấy không phải họ không có khuyết điểm. Carl Rogers Carl Rogers 1902-1987 sinh ngày 8 tháng 1 tại Oak Oak một ngoại ô Chicago, bang Illinois, và là con thứ tư trong gia đình sáu anh chị em. Ông gần gũi với mẹ hơn cha, một kỹ sư công trình và vắng nhà thường xuyên. Ở vùng Oak Park, ông đi học cùng trường với Ernest Hemingway và các con của kiến trúc sư nổi tiếng Frank Lloyd Wright. Rogers mô tả gia đình ông như là rất gắn bó với tôn giáo và rất sung đạo. Các quan hệ với bạn bè bên ngoài không được gia đình khuyến khích. Carl Rogers Không lạ gì Rogers tỏ ra rất cô đơn ở trường học và giống như Maslow, ông tìm trú ẩn trong sách vở, đọc bất cứ cái gì ông vớ được kể cả các sách bách khoa và từ điển. Năm 12 tuổi gia đình ông dời đến một nông trại cách Chicago 25 dặm về phía Tây. Mục đích của đổi nhà là tạo một bầu khí trong lành và đạo đức hơn cho gia đình. Vì cha ông đòi hỏi nông trại được điều hành một cách khoa học, Rogers đã phát triển một sự quan tâm sâu xa đối với khoa học bằng cách đọc bất cứ tài liệu nào ông có thể kiếm. Sau khi tốt nghiệp trung học, Rogers vào Đại học Wisconsin năm 1919 và theo ngành canh nông. Đến năm 1924 ông đổi lại sang học lịch sử và đậu cử nhân năm 1924. Một thời gian ngắn sau ông đến Đại học Columbia và tại đây ông đậu thạc sĩ lâm sàng năm 1928 và tiến sĩ năm 1931. Luận án tiến sĩ của ông viết về việc đo lường sự điều chỉnh nhân cách nơi trẻ em. Sau khi nhận bằng tiến sĩ, Rogers đến làm việc cho Ban Nghiên cứu trẻ em của Hội ngăn ngừa bạo lực đối với Trẻ em ở Rochester, New York. Tại đây ông đã có nhiều kinh nghiệm để dẫn ông tới việc triển khai kiểu tâm lý trị liệu của riêng ông. Lý thuyết của Rogers về nhân cách Theo yêu cầu của nhiều người, Rogers đã triển khai một lý thuyết về nhân cách để cắt nghĩa các hiện tượng ông đã quan sát trong tiến trình điều trị. Các yếu tố cơ bản của lý thuyết của ông được trình bày lần đầu tiên trong bài diễn thuyết ông đọc khi nhận chức chủ tịch APA 1947 và sau này được mở rộng trong cuốn Trị liệu dựa vào khách hàng 1951. Giống như Maslow, Roger giả thuyết có một động cơ bẩm sinh nơi con người hướng tới sự tự thể hiện mình. Và nếu người ta lấy khuynh hướng tự thể hiện này làm tiêu chuẩn sống, có nhiều khả năng họ sẽ thể hiện đời sống một cách sung mãn và cuối cùng đạt hết tiềm năng của họ. Ta gọi những người như thế là những người sống theo quá trình đánh giá hữu cơ. Sử dụng quy trình này, người ta đạt tới và duy trì được các kinh nghiệm phù hợp với khuynh hướng tự thể hiện nhưng ngăn chặn và tránh được các kinh nghiệm không phù hợp với khuynh hướng ấy. Lý thuyết nhân cách của Carl Roger tập trung vào thân chủ trọng tâm Những người như thế được thúc đẩy bởi các tình cảm chân chính của họ và sống một đời sống trung thực theo kiểu nói của các nhà hiện sinh nghĩa là một đời sống được thúc đẩy bởi các tình cảm nội tâm chân chính chứ không phải bởi tập tục, niềm tin, truyền thống, giá trị hay các quy ước do người khác áp đặt. Tiếc thay, theo Rogers, nhiều người không sống theo các tình cảm sâu xa nhất của nội tâm họ. Một vấn đề phát sinh là vì tuổi thơ chúng ta có nhu cầu được nhìn nhận tích cực. Sự nhìn nhận tích cực bao gồm việc đón nhận các thứ như tình yêu, sự âu yếm, thiện cảm, và sự chấp nhận của những người có liên quan đến đời sống của một đứa trẻ. Nếu người ta dành cho đứa trẻ sự nhìn nhận một cách vô điều kiện, thì không có vấn đề gì xảy ra. Nhưng thường người ta không làm một cách vô điều kiện. Thường các cha mẹ hay những người có liên quan chỉ dành sự kính trọng cho đứa trẻ nếu nó hành động hay suy nghĩ theo một lối nhất định nào đó. Điều này đặt ra các điều kiện về giá trị. Trẻ em sẽ sớm nhận ra rằng để được yêu thương, chúng phải hành động và suy nghĩ phù hợp với các giá trị của những người có liên quan đến cuộc sống của chúng. Dần dần, khi đứa trẻ ngày càng nội tâm hóa các giá trị, các giá trị ấy sẽ trở thành tiêu chuẩn cho đời sống của chúng. Nghĩa là chúng sẽ sống theo các điều kiện về giá trị do người khác áp đặt. Theo Rogers, chỉ có một cách để tránh áp đặt các điều kiện về giá trị trên người khác, đó là dành cho họ sự nhìn nhận tích cực và vô điều kiện về giá trị. Với sự nhìn nhận tích cực vô điều kiện, người ta được yêu mến và kính trọng vì bản chất thực sự của nhân cách họ. Và chỉ những ai kinh nghiệm được sự nhìn nhận tích cực vô điều kiện thì mới có thể trở thành một con người thể hiện sung mãn đời mình. Xem thêm >>> Dịch Vụ Trị Liệu Tâm Lý Qua Điện Thoại Các phê bình Người ta không ngạc nhiên khi tâm lý học nhân văn bị phê bình. Các phê bình có thể được tập trung vào điểm sau Tâm lý học nhân văn đồng hóa tâm lý học hành vi với công trình của Watson và Skinner. Cả hai tác giả này nhấn mạnh các sự kiện môi trường như là nguyên nhân của hành vi con người, đồng thời phủ nhận hay giảm thiểu tầm quan trọng của các sự kiện tinh thần. Tuy nhiên, cũng có các nhà hành vi khác nhấn mạnh các sự kiện tinh thần và mục đích trong các phân tích của họ về hành vi ví dụ Tolman. Các nhà khoa học như Watson hay Skiner cho rằng môi trường có tính tác động lớn đến tâm lý học nhân văn Tâm lý học nhân văn không xét đến bản chất tích lũy của khoa học bằng cách nhấn mạnh rằng tâm lý học khoa học không quan tâm đến các thuộc tính siêu vật của con người. Mô tả về con người như các nhà nhân văn đề nghị thì giống với các mô tả được ưa thích trong quá khứ trong lĩnh vực văn học, thi ca hay tôn giáo. Nó diễn tả một kiểu tư duy ao ước mà không được sự hỗ trợ của các sự kiện mà khoa tâm lý học khách quan đã tích lũy được. Tâm lý học nhân văn phê bình thuyết hành vi, tâm phân học và tâm lý học khoa học nói chung, nhưng cả ba loại này đều đã có những cống hiến quan trọng cho sự cải thiện số phận con người, là mục tiêu chính mà tâm lý học nhân văn theo đuổi. Nhiều thuật ngữ và khái niệm mà các nhà tâm lý học nhân văn sử dụng thì quá mơ hồ không thể có một định nghĩa rõ ràng và có thể kiểm chứng. Thậm chí người ta còn có sự lẫn lộn về chính định nghĩa của tâm lý học nhân văn. Cống hiến Đóng góp chính của tâm lý học nhân văn cho khoa tâm lý học là việc nó mở rộng lĩnh vực của tâm lý học. Trong tâm lý học ngày nay, có một khuynh hướng ngày càng tang muốn nghiên cứu toàn thể con người. Chúng ta không chỉ muốn tìm hiểu con người học tập, suy nghĩ và phát triển thế nào về phương diện sinh vật và tri thức. Nhưng chúng ta còn muốn biết con người hình thành thế nào các kế hoạch để đạt các mục tiêu tương lai và tại sao người ta cười, khóc và tạo ý nghĩa trong cuộc đời họ. Theo đánh giá của nhiều người, tâm lý học nhân văn đã thổi một sức sống mới vào tâm lý học. Tâm lý học nhân văn đã nhìn thấy bản chất tốt đẹp trong con người, đề cao hoài bão và nỗ lực vươn lên của con người. Vì cho rằng bản chất con người vốn là tốt đẹp, có lòng vị tha, có tiềm năng sáng tạo. Nên tâm lý học nhân văn hướng đến mục tiêu giúp con người tìm được bản ngã đích thực của mình. Con người cần đối xử với nhau một cách tế nhị, cởi mở lẫn nhau.
Thông tin chi tiết Thông tin sản phẩmMã hàng8935325003691Tên Nhà Cung CấpAZ Việt NamTác giảTô Thính PhongNgười DịchTử KhâmNXBNXB Dân TríNăm XB2022Ngôn NgữTiếng ViệtTrọng lượng gr300Kích Thước Bao x cmSố trang240Hình thứcBìa MềmTâm Lý Học Nhận ThứcCẨM NANG TÂM LÝ GIÚP BẠN NHẬN THỨC SÂU SẮC HƠN VỀ BẢN THÂN“Tôi là ai? Điểm mạnh và điểm yếu của tôi là gì? Mong muốn của tôi là gì?” Để trả lời được những câu hỏi trên, chúng ta cần phải đạt được sự nhận thức về bản thức về bản thân chính là chìa khóa để hình thành nhân cách, nó giúp chúng ta hiểu rõ đặc điểm tính cách, thói quen, suy nghĩ, nhu cầu và ưu khuyết điểm của bản thân. Thông qua quá trình tự nhận thức, chúng ta sẽ khám phá ra những năng lực tiềm ẩn, sống tích cực hơn và tự đặt ra những mục tiêu để phấn lực tự nhận thức chính là bước đầu tiên trên hành trình tìm về với cội nguồn của tâm thức, mở rộng trái tim để chấp nhận con người thật, tạo dựng nên những mối quan hệ bền vững và tự tin làm chủ cuộc đời của chính mình. Trân trọng kính chào các khách hàng của Nhà sách trực tuyến nay, do mức chiết khấu trên website đang là rất cao, đặc biệt vào các thời điểm có chương trình khuyến mãi. Do đó, số lượng sản phẩm giảm KHỦNG có giới hạn nhất định, vì vậy để đảm bảo quyền lợi của từng khách hàng của chúng tôi xin thông báo chính sách về “Đơn hàng mua Số lượng” và việc xuất hóa đơn GTGT như sau1. Đơn hàng được xem là “đơn hàng mua sỉ” khi thoả các tiêu chí sau đây- Tổng giá trị các đơn hàng trong ngày có giá trị từ đồng Hai triệu đồng trở 1 Đơn hàng hoặc tổng các đơn hàng trong ngày có 1 sản phẩm có tổng số lượng từ 10 trở lên Cùng 1 mã hàng.- 1 Đơn hàng hoặc tổng các đơn hàng trong ngày có tổng số lượng sản phẩm đủ loại từ 20 sản phẩm trở lên và Số lượng mỗi tựa từ 5 trở lên Cùng 1 mã hàng . Không áp dụng cho mặt hàng Văn Phòng Phẩm .Lưu ý Các đơn hàng có cùng thông tin người mua hàng cùng số điện thoại, cùng email hoặc cùng địa chỉ nhận hàng thì được tính là đơn hàng của 1 khách Chính sách giá % chiết khấu giảm giá. Đây là chính sách chung chỉ mang tính tương đối. Xin quý khách vui lòng liên lạc với Nhân Văn để có chính sách giá chính xác nhất- Đối với Nhóm hàng sách độc quyền Nhân Văn áp dụng mức giảm giá trên web tối đa không vượt quá 35%.- Đối với Nhóm hàng sách của các nhà cung cấp trong nước áp dụng mức giảm giá trên web tối đa không vượt quá 30%.- Đối với Nhóm hàng sách từ NXB Giáo Dục, Kim Đồng, Oxford và Đại Trường Phát áp dụng mức giảm giá trên web tối đa không vượt quá 10%.- Đối với Nhóm hàng văn phòng phẩm, đồ chơi, dụng cụ học sinh áp dụng mức giảm giá trên web tối đa không vượt quá 10%.- Đối với Nhóm hàng giấy photo, sản phẩm điện tử, văn hóa phẩm áp dụng mức giảm giá trên web tối đa không vượt quá 10%.Quý khách có nhu cầu mua số lượng lớn, vui lòng liên hệ bộ phận kinh doanh để có chính sách tốt nhất Call/ Zalo Từ thứ 2 đến thứ 6 830 am - 730 pm hoặc Email sale Đối với việc thanh toán đơn hàng sỉ và xuất hóa đơn GTGT- Khách hàng mua SÁCH và VĂN PHÒNG PHẨM đơn hàng sỉ hoặc có nhu cầu xuất hóa đơn GTGT phải thanh toán trước cho Nhân Văn từ 50 - 100% giá trị đơn hàng, chúng tôi sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm về khâu vận chuyển và chất lượng hàng hóa đến tay khách Đối với mặt hàng HÓA MỸ PHẨM và BÁCH HÓA. Khách hàng mua hàng với số lượng trên 5 hoặc đơn HÀNG sỉ phải thanh toán cho Nhân Văn 100% giá trị đơn hàng. Chúng tôi sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm về khâu vận chuyển và chất lượng hàng hóa đến tay khách hàng.Chính sách mua sỉ có thể thay đổi tùy theo thời gian thực tế - Điểm NV-POINT sẽ được tích lũy vào tài khoản khách hàng sau khi đơn hàng hoàn tất tức khách hàng đã thanh toán và nhận đơn hàng thành Mỗi đơn hàng hoàn tất sẽ nhận 1% điểm thưởng trên tổng giá trị đơn Với mỗi phát sinh trong giao dịch khách hàng sẽ nhận tương ứng với 100 NV-POINT. - Ngày 31/12 hàng năm, Nhân Văn sẽ thực hiện thiết lập lại Điểm Tích Lũy NV-POINT và hạng thành viên cho tất cả tài BIỆT- Cơ chế tích điểm mới áp dụng ĐỒNG NHẤT với tất cả thành viên khi tham gia trải nghiệm mua sắm tại hệ thống Siêu Thị Nhà Sách Nhân Văn và mua sắm online tại website Nhà Sách Nhân Văn sẽ tặng quà đặc biệt nhân ngày Sinh Nhật Khách Tận hưởng các ưu đãi đặc biệt dành cho chương trình thành viên áp dụng ĐỒNG NHẤT cả khi trải nghiệm mua sắm tại hệ thống Nhà Sách Nhân Văn và cả trên website Sẽ có chương trình “Member Day” ưu đãi đặc biệt diễn ra vào NGÀY 15 HÀNG THÁNG với nhiều ưu đãi, quà tặng dành tặng khách hàng đã đăng ký thành viên và mua sắm trực tiếp tại hệ thống Nhà Sách Nhân Văn và mua trên - Điểm tích lũy NV-POINT không quy đổi thành tiền Trường hợp đơn hàng bị hủy/trả hàng thì sẽ không được tính điểm tích lũy Điểm NV-Point hiện tại của khách hàng được tích lũy từ việc mua hàng/tham gia trò chơi/ưu đãi chương trình sẽ giữ nguyên để sử dụng đổi thưởng quà Điểm và thông tin cá nhân được cập nhật chính thức sau khi giao dịch hoàn tất và sau khi khách hàng nhận được Điểm NV-POINT sẽ không thể được tặng, gộp hoặc chuyển qua lại giữa các tài Điểm tích luỹ theo năm và hạng thành viên được xét lại mỗi năm 1 Trường hợp NV-POINT đã được dùng để đổi quà tặng sẽ không được hoàn trả Nhà Sách Nhân Văn không chịu trách nhiệm giải quyết các quyền lợi của khách hàng nếu thông tin do khách hàng cung cấp không đầy đủ và không chính xác, hoặc nếu quá thời hạn nhận quyền lợi theo quy định tại thể lệ chương Nhà Sách Nhân Văn có quyền quyết định bất kỳ lúc nào về việc chỉnh sửa hoặc chấm dứt chương trình khách hàng thành viên mà không cần báo đãi giảm giá theo hạng thẻ được áp dụng tại tất cả chuỗi hệ thống Nhà Sách Nhân Văn hoặc mua tại Website Nhà Sách Nhân Văn sẽ xét duyệt hạng thành viên của khách hàng dựa trên tổng giá trị đơn hàng tích lũy sau khi mua hàng. - Chương trình “Quà Tặng Sinh Nhật Đặc Biệt” áp dụng cho thành viên có phát sinh ít nhất 1 giao dịch trong 12 tháng gần Voucher quà tặng sinh nhật chỉ áp dụng duy nhất 01 lần cho 01 hóa đơn tại tất cả chuỗi hệ thống Nhà Sách Nhân Văn hoặc mua tại Website Trong trường hợp có bất kỳ tranh chấp, khiếu nại liên quan đến chương trình thành viên, quyết định của Nhà Sách Nhân Văn là quyết định cuối biết thêm chi tiết vui lòng truy cập website hoặc hotline 028 3636 7777
Một quan điểm khác về tính cách đó là Tâm lý học Nhân Văn – Humanistic Psychology, tập trung vào vùng ý thức, giá trị và niềm tin trừu tượng, bao gồm các trải nghiệm tinh thần và những niềm tin mà con người chấp nhận sống và chết vì nó. Theo các nhà Tâm lý học Nhân Văn, tính cách phụ thuộc vào những niềm tin và nhận thức của mọi người về thế giới. Nếu bạn tin rằng có một trải nghiệm đặc biệt nào đó có ý nghĩa quan trọng, thì nó đã thực sự có ý nghĩa rất lớn. Chỉ bằng cách hỏi bạn về cách diễn giải và đánh giá các sự kiện trong cuộc sống, một nhà tâm lý học có thể hiểu được bạn. Trong thần học, một người theo chủ nghĩa Nhân Văn tôn vinh tiềm năng của con người, nhìn chung là phủ nhận hoặc không nhấn mạnh đến một Đấng tối cao. Thuật ngữ Nhà tâm lý học nhân văn không ngụ ý nói đến niềm tin tôn giáo của người đó. Tâm lý học Nhân Văn xuất hiện vào những năm 1950 và 1960 như một làn sóng phản đối chống lại thuyết hành vi và thuyết phân tâm – các quan điểm tâm lý đang thống trị thời kỳ này. Các nhà hành vi học và phân tâm học thường ít nhấn mạnh các khía cạnh cao quý về suy nghĩ và hành động của con người, trong khi các nhà Tâm lý học Nhân Văn xem coi mọi người về cơ bản là tốt đẹp và nỗ lực để đạt được tiềm năng của họ. Ngoài ra, mặc dù có những khác biệt giữa thuyết hành vi và thuyết phân tâm, cả hai đều giả định thuyết tất định niềm tin rằng mỗi hành vi đều có nguyên nhân và thuyết giản lược nỗ lực giải thích hành vi theo các yếu tố cấu thành của nó. Các nhà Tâm lý học Nhân Văn không cố giải thích hành vi theo các thành phần hoặc nguyên nhân tiềm ẩn của nó. Họ cho rằng con người tự do đưa ra những quyết định có cân nhắc và ý thức. Ví dụ, con người có thể cống hiến hết mình vì một mục đích cao cả, hi sinh hạnh phúc của bản thân hoặc liều mạng vì điều đó. Đối với một nhà Tâm lý học Nhân Văn, mô tả hành vi như vậy cho những tác nhân củng cố hoặc quá trình suy nghĩ vô thức là không chính xác. Tâm lý học Nhân Văn có những điểm chung với Tâm lý học Tích Cực, đó là cả hai đều nhấn mạnh các yếu tố làm cho cuộc sống có ý nghĩa và ngập tràn niềm vui. Tuy nhiên, cả hai lĩnh vực theo đuổi các phương pháp khác nhau. Trong khi các nhà nghiên cứu trong Tâm lý học Tích Cực dựa vào các bảng khảo sát, thực nghiệm … để tìm ra những đặc điểm chung, các nhà Tâm lý học Nhân Văn ghi chép những lời tự sự của từng cá nhân, sử dụng các phương pháp giống như người viết tiểu sử hơn là một nhà khoa Rogers và quan điểm tích cực vô điều kiện Photo Verywellmind Carl Rogers là một nhà Tâm lý học Nhân Văn có nhiều ảnh hưởng nhất. Ông đã nghiên cứu thần học trước khi chuyển sang tâm lý học, và ảnh hưởng của những nghiên cứu ban đầu rõ ràng trong quan điểm của ông về bản chất con người. Rogers 1980 coi bản chất của con người về cơ bản là tốt đẹp. Theo Rogers, việc con người đạt được sự ưu tú là điều tự nhiên như việc cây cối phát triển. Con người đánh giá bản thân và hành động của họ ngay khi sinh ra. Họ phát triển một khái niệm về bản thân – self concept – hình ảnh về những gì thực sự diễn ra bên trong họ, và một cái tôi lý tưởng – ideal self – hình ảnh về những gì họ muốn trở thành. Rogers đo lường khái niệm bản thân và cái tôi lý tưởng bằng cách đưa cho ai đó một tập thẻ có chứa những câu như “Tôi trung thực” “Tôi nghi ngờ người khác.” Sau đó người này sẽ sắp xếp những câu này theo vào nhóm “nói đúng” hoặc “không đúng về tôi” hoặc sắp xếp thành một chuỗi theo mức độ từ “đúng về tôi nhất” cho đến “ít đúng về tôi nhất “Phương pháp này được biết như là Q-sort. Sau đó Rogers cung cấp một tập thẻ giống hệt và yêu cầu người đó chia thành 2 tập “Đúng với cái tôi lý tưởng” và” không đúng với bản thân lý tưởng”. Bằng cách này, ông có thể so sánh khái niệm về bản thân của một người so với cái tôi của anh ta. Những người thấy được sự mâu thuẫn giữa hai nhóm này nhìn chung thường cảm thấy đau khổ. Các nhà Tâm lý học Nhân Văn cố gắng giúp đỡ mọi người vượt qua vấn đề của mình bằng cách cải thiện khái niệm bản thân hoặc thay đổi cái tôi lý tưởng ở thúc đẩy phúc lợi của con người, Rogers khẳng định rằng con người nên liên hệ lẫn nhau bằng một sự tôn trọng tích cực vô điều kiện – unconditonal positive regard, một mối quan hệ và Thomas Harris 1967 mô tả là “Tôi OK – bạn OK”. Sự tôn trọng tích cực vô điều kiện là chấp nhận hoàn toàn không phán xét một người nào đó, giống như tình yêu của cha mẹ dành cho con cái. Nếu bạn có được sự tôn trọng tích cực vô điều kiện, dù bạn có thể không chấp nhận hành động hoặc ý định của ai đó, bạn sẽ vẫn chấp nhận và yêu thương người đó. Quan điểm này giống với lời khuyên của Cơ đốc giáo đó là “Ghét tội lỗi nhưng yêu thương tội nhân”. Một cách thức khác đó là sự tôn trọng tích cực có điều kiện – đó là thái độ “Tôi sẽ chỉ thích bạn nếu…” Những người mà được đối xử bởi sự tôn trọng tích cực có điều kiện cảm thấy dè dặt về việc cởi mở bản thân với những ý tưởng hoặc hành động mới vì sợ mất đi sự ủng hộ từ người khác.Photo VerywellmindAbraham Maslow & Tính cách tự hiện thực hóa bản thân Abraham Maslow, một nhà Tâm lý học Nhân Văn khác, cho rằng hầu hết các nhà tâm lý học tập trung vào rối loạn tính cách, cho rằng tính cách đó bình thường hoặc tệ hơn mức bình thường. Maslow khẳng định, như Alfred Adler đã nói, tính cách cũng có thể trở nên tốt đẹp hơn mức bình thường. Ông nhấn mạnh sự hiện thực hóa bản thân – selfactualization, việc đạt được trọn vẹn tiềm năng của con người. Khái niệm hiện thực hóa bản thân giống như khái niệm về phấn đấu để đạt được tính ưu thế của Adler. Thực tế, Adler có ảnh hưởng rõ ràng đến Rogers và Maslow. Thuật ngữ “quan tâm xã hội vô điều kiện” của Adler là tiền thân của sự tôn trọng tích cực vô điều kiện. Bước đầu để mô tả tính cách hiện thực hóa bản thân, Maslow đã lập danh sách những người theo quan điểm của ông là đang phát huy được tiềm năng lớn của mình. Danh sách của ông bao gồm những người ông biết rõ về cá nhân cũng như một số người khác trong lịch sử. Ông tìm cách khám phá xem liệu họ có điểm chung gì hay Maslow 1962, 1971, những người đã hiện thực hóa bản thân hoặc đang hiện thực hóa bản thân, tính cách của họ thể hiện những đặc điểm sauCó nhận thức đúng đắn về thực tại Họ nhận thức được thế giới như nó vốn có, không phải theo cách họ muốn. Họ chấp nhận sự không chắc chắn và mơ sự độc lập, sáng tạo và sự chủ động Họ ra các quyết định riêng mình, thậm chí cả khi người khác có quan điểm trái chiềuChấp nhận bản thân và người khác đối xử với mọi người với sự tôn trọng tích cực vô điều điểm tập trung vào vấn đề hơn là tập trung vào bản thân họ nghĩ về cách giải quyết vấn đề chứ không phải cách làm thế nào để bản thân trông có vẻ tốt đẹp hơn. Họ tập trung vào các vấn đề triết học hoặc chính trị quan trọng, không chỉ tập trung vào giải quyết các vấn đề thường ngày. Niềm vui của cuộc sống Họ sẵn sàng đón nhận những trải nghiệm tích cực, bao gồm “trải nghiệm đỉnh cao” khi họ cảm thấy thực sự mãn nguyện và hài lòng. Có khiếu hài hước. Các nhà phê bình lưu ý rằng, bởi vì mô tả của Maslow dựa vào các mẫu lựa chọncủa chính ông, nó có thể đơn giản phản ánh các đặc điểm mà ông ưu tiên. Nghĩa là, lý luận của ông giống như một vòng tròn Ông xác định rõ một số người nhất định là đã tự hiện thực hóa bản thân và sau đó hỏi xem họ có điểm chung nào để đưa ra định nghĩa về “tự hiện thực hóa”. Trong bất kỳ trường hợp nào, Maslow nhấn mạnh quan điểm rằng tính cách lành mạnh giống với một thứ gì đó hơn là việc không mắc rối loạn tâm lý Kalat, J. W. 2017. Introduction to psychology 11ed. Boston, MA Cengage Learning.
tam ly hoc nhan van