Nghe vợ nói một lèo xong tôi lẳng lặng quay vào trong, cởi quần áo ra thay lại chiếc quần đùi rồi lên giường chui xó đắp chăn, mở điện thoại ra nhắn cho ông bạn chủ nhà: "Nay tôi trúng gió bạn ạ, ốm hết tiền nên biếu bạn 500k, chúc bạn nhà cao cửa rộng phát đạt trăm bề!".
Sư một hôm có dịp đi ngang nhà người anh bèn ghé thăm. Người lớn đều đi vắng cả chỉ có thằng cháu mới lớn nằm ở nhà. "Một vợ nằm giường lèo, hai vợ nằm chèo queo, Những người bệnh tưởng. Truyện Ngắn. Thuở xưa, có một đoàn người lánh giặc phải ẩn
1 vợ nằm giường lèo. 2 vợ nằm chèo queo. 3 vợ ra chuồng heo mà nằm. Trả lời. Thoa Pham viết: Tháng Bảy 30, 2022 lúc 8:18 chiều Một vợ nằm giương lèo, hai vợ nằm chèo queo, ba vợ ra chuồng heo mà nằm. Trả lời. Hưng Phạm viết: Tháng Bảy 30, 2022 lúc 8:18 chiều.
Lấy chồng xong đẻ lèo hai đứa con. Ấy thế mà chồng vẫn yêu thương, chiều chuộng; cũng chắc vì mình ko đánh rơi bản thân, cố gắng hoàn thiện mỗi ngày. Mình thoạt nghĩ cuộc sống hôn nhân của nhiều đôi vợ chồng trẻ ngày nay đang bị thiếu đi sự hy sinh và cảm thông.
Vài năm sau anh Tốt lấy vợ, một người con gái xinh đẹp do mẹ tuyển chọn, mẹ hết lời ca tụng cô Na là con nhà gia giáo tử tế, có học lại dịu dàng. vẫn lèo lái đời anh, một buổi chiều chồng ngồi bên giường bệnh, cô đã ràn rụa nước mắt nói những lời trăn
E có cần đăng ký trước phòng ở để sau khi sanh có phòng vợ e nằm không? Và nếu Đăng ký phòng 2 giường thì là bao nhiêu tiền/ngày?3. Chào BS BV Hùng VươngVợ em đang tuần 37, sắp sanh rồi, nên em gửi đến BV một số câu hỏi sau, mong BS và mọi người hồi đáp dùm em qua
Tôi "ú ớ" nói không ra tiếng. - Ðã biểu xách lưng lưng thôi, ai mượn xách đầy chi cho té không biết! Tôi không nói không rằng, cũng không thèm nhìn vợ, chỏi tay ngồi dậy một cách khổ sở. - Ðể em dìu anh về. Vợ tôi vừa nói vừa quàng tay qua người tôi . Tôi liền hất
5UhdLDm.
"Lèo" là cái gì mà phải xả? Nghe hỏi, nhiều người ngần ngừ, lật đật lật từ điển tra cứu xem sao. Thì đây, lèo là dây nối từ cánh buồm đến chỗ người lái thuyền để lựa gió cho thuyền đi. Nói rõ hơn một chút, có hai loại lèo "lèo dùi" và "lèo thẳng". Nếu không giải thích, khi đọc/học thơ của Lê Thánh Tông, đến câu này ắt lại ngắc ngứLèo ăn gió, dầu dùi thẳngCánh phơi mây, mặc lộng khơi"Lèo ăn gió", có thể hiểu lèo đã được gió, hoàn toàn theo đúng hướng gió, no gió; do đó, bất chấp cả "dùi thẳng". Từ điển của Huình Tịnh Paulus Của giải thích "Dùi thẳng Chiều theo sự thể, lần hồi, không quyết bề nào". Ta hiểu là sự nhùng nhằng, không dứt khoát, rạch ròi, chưa đâu vào đâu. Vậy nên, phải có dấu phết , giữa dùi và thẳng mới rõ nghĩa người đi thuyền hoàn toàn chủ động theo ý thích, dầu/dù "lèo dùi" dây dùn, không săn, không thẳng hay "lèo thẳng" đi nữa cũng không sao vì "lèo" đã "ăn gió", no gió, căng rằng, do không nắm rõ ngữ nghĩa trên nên các bản in đều ghi liền mạch "dùi thẳng". Hơn nữa hai câu thơ trên đối xứng từng chữ, vậy phải "dùi" và "thẳng" mới đối được với "lộng" và "khơi", hai từ tách biệt. Thành ngữ có câu "Vào lộng ra khơi" là vậy."Lèo lái" là động tác giữ lấy dây lèo, bánh lái để thuyền chạy đúng hướng. Khi nói "co chân chạy một lèo", lèo ở đây xuất phát từ hình ảnh chiếc thuyền chạy một bề, không phải trở buồm, cứ thế mà chạy một hơi, chạy một mạch."Xả lèo" trong câu "Xin anh bớt ngọn, xả lèo chờ em", ông Huỳnh Công Tín lý giải rành mạch trong "Từ điển từ ngữ Nam Bộ" "Buông sợi dây chằng buồm, cho buồm bớt căng gió để thuyền ghe giảm tốc độ"; chứ không phải "Tháo sợi dây chằng buồm cho buồm căng gió" như "Đại từ điển tiếng Việt" đã giải mối quan hệ xã hội, có không ít lần ta bực mình vì gặp người "hứa lèo". Họ hứa hẹn "chắc như đinh đóng cột" nhưng kết quả "Ba voi không được bát nước xáo", chỉ hứa hươu hứa vượn. "Hứa lèo" là hứa cuội, hứa hão, nói tắt một lời là xạo ke "Nói lời rồi lại ăn lời được ngay" Truyện Kiều.Còn "giường lèo" thì sao? "Đêm rằm mười sáu trăng treo/ Anh đóng giường lèo, lấy vợ Lái Thiêu". Tục ngữ cũng có câu "Một vợ nằm giường lèo, hai vợ nằm chuồng heo, ba vợ nằm chèo queo". "Giường lèo" là loại giường có chạm trổ tinh vi, làm bằng gỗ miền Nam, nhiều người mê món "bún nước lèo". Chẳng hạn, ở Sóc Trăng dùng mắm cá sặt còn ở Trà Vinh dùng mắm bò hóc để nấu nước lèo. Loại nước này, người Bắc gọi "nước xuýt" - nước luộc thịt, luộc lòng, hầm xương có mùi vị thơm ngon. Gọi "nước dùng" cũng không sai. Rõ ràng, tùy vùng miền, tên gọi có khác người đàn ông bụng phệ, to tổ chảng do uống nhiều bia thì cái bụng đó bị gọi là "thùng nước lèo".
Những bài ca dao - tục ngữ về "giường lèo" Nằm giường lèo lại đòi trèo trướng phụng Nằm giường lèo lại đòi trèo trướng phụng Dẫu ai trề nhún, nó cũng làm ngang Một khi bị đạp xuống sàn Ngủ chung với chó, còn than nỗi gì Một vợ thì nằm giường lèo Một vợ thì nằm giường lèo Có gối tai bèo, sáo rủ, màn treo Hai vợ thì nằm chèo queo Ba vợ thì xuống chuồng heo mà nằm Trăng rằm mười sáu trăng treo Trăng rằm mười sáu trăng treo Anh đóng giường lèo cưới vợ Nha Trang Giường lèo mà trải chiếu mây Giường lèo mà trải chiếu mây Làm trai hai vợ như dây buộc mình Giường lèo Loại giường bằng gỗ quý, chạm trổ công phu, có nguồn gốc từ Lào. Trước đây loại giường này thường được các nhà quyền quý đặt thợ người Lào làm, nên gọi là giường lèo đọc trại chữ Lào. Sau này thợ của ta cũng làm được loại giường này, nhưng vẫn giữ tên giường lèo. Trướng Màn. Ngày xưa, tấm màn che buồng người con gái gọi là trướng. Ngoài ra, theo Thiều Chửu Quân đi đến đâu, căng vải lên làm rạp để nghỉ cũng gọi là trướng. Êm đềm trướng rủ màn che Tường đông ong bướm đi về mặc ai Truyện Kiều Sáo Còn gọi là mành sáo, là tấm đan bằng tre, có nan to, thường treo trước nhà hoặc gần cửa sổ để che nắng. Sáo cũng có thể được treo trước bàn thờ. Mành sáo Nha Trang Một địa danh thuộc tỉnh Khánh Hòa, hiện là một thành phố biển nổi tiếng không chỉ ở nước ta mà trên cả thế giới về du lịch biển, đồng thời là một trong những trung tâm kinh tế của cả nước. Theo nhiều nhà nghiên cứu, tên "Nha Trang" được hình thành do cách đọc của người Việt phỏng theo âm một địa danh Chăm vốn có trước là Ya Trang hay Ea Trang có nghĩa là "sông Lau," tiếng người Chăm gọi sông Cái chảy qua Nha Trang ngày nay, vì chỗ con sông này đổ ra biển mọc rất nhiều cây lau. Từ tên sông, sau chỉ rộng ra vùng đất từ năm 1653. Vẻ đẹp Nha Trang Mây Tên chung của khoảng hơn 600 loài dây leo thuộc họ cọ, thân có nhiều gai, mọc nhiều ở các vùng rừng núi nước ta. Gỗ mây rất dẻo, được khai thác để sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, đồ dùng trong gia đình như bàn, ghế, đan giỏ đựng... Loài mây được trồng và sử dụng nhiều nhất ở nước ta là mây nếp. Dây mây
Vợ một thì nằm giường lèoVợ hai co rút chèo queo một mìnhKhông phải tôi chỉ trích những vị nào lỡ đẹp trai nên bị nhằm hai vợTôi thuật chuyện này để quý ngài nghe mà sợSợ để xán vào cái cảnh hai vợ mà khổ cái thân có cô nào bảo em yêu anh lắm các ngài nên xá thôi khỏi đi bàNói không phải trù chớ rủi ro có chuyện gìMình vô khám nghỉ mát vẫn còn sung sướng hơn là sống cảnhchồng một vợ hai Ở vòng tù còn có ngày mãnChớ vô vòng này rồi không có ngày mãn các ông ơiPhải khổ mang cho đến khi Ngọc Hoàng giũ tôi một vợ tôi trọng lời nói tôi lắm chớNay là ba mươi mấy tuổi đầu rồiMà tôi chưa hề biết nói dối một câu nàoNhưng từ lúc có bà vợ nhỏ tôi nói dối đệ nhất anh hàoCái môn nói láo không học mà hay nên vợ tôi tin rơm rớp có lầnTôi vừa gạt vợ đặng qua bà nhỏ thì nghe con tôi học bài luận lýNói láo là một tật xấu nói láo sẽ bị mất uy tín mất phẩm giáVậy ta không nên nói láo tôi nạt đùa dẹp học bài nàyTôi nạt nó để che đậy cái mắc cỡ trong bữa đó tôi làm bộ âu sầu bảo vợCha mệt muốn chết mà tối nay ông chủ bắt làm đúpLần này vợ tôi sừng sộ đừng có dóc nèTôi biết sách anh quá xá rồiTôi lanh miệng chỉ ngọn đèn thềAnh nói láo với mình cho ngọn đèn tắtAnh tắt theo đi cái bóng đèn mắc gió chớp chớpVài ba cái rồitắt ngủm cù đèo mà tôi thì sống nhăn răngBữa đó vợ tôi làm dữ quá điNên tôi đành nằm nhà chịu trậnCho bả tụng bả nhằn vì ai xấu miệng đã thọc choBà xã nghe hết cả đầu đuôi .
Những bài ca dao - tục ngữ về "đa thê" Sáu cô đi chợ một xuồng Sáu cô đi chợ một xuồng Tôi chèo theo chính giữa sợ mích lòng sáu cô Phải chi tôi có lúa bồ Tôi xin cưới hết sáu cô một lần Cô hai mua tảo bán tần Cô ba sắc thuốc dưỡng thân mẹ già Cô tư nấu nước pha trà Cô năm coi cửa coi nhà ngoài trong Cô sáu trải chiếu, giăng mùng Cô bảy san sẻ tình chung với mình Phải chi cả sáu cô thuận tình Trai năm thê bảy thiếp, vợ mình đông vui Dị bản Lang thang một dãy sáu cô Cưới cô chính giữa mích lòng năm cô Phải chi tôi có lúa bồ Tôi ra tôi cưới sáu cô một lần Cô hai mua tảo bán tần Cô ba xách nước dưỡng nuôi mẹ già Cô tư dọn dẹp trong nhà Cô năm phân nước pha trà uống chung Cô sáu trải chiếu giăng mùng Cô bảy là nghĩa tình chung với mình Cô bảy phân hết sự tình Trai năm thê bảy thiếp vợ của mình rất đông Ai bì anh có tiền bồ Anh đi anh lấy sáu cô một lần Cô hai buôn tảo bán tần Cô ba đòi nợ chỗ gần chỗ xa Cô tư dọn dẹp trong nhà Cô năm sắc thuốc, mẹ già cô trông Cô sáu trải chiếu giăng mùng Một mình cô bảy nằm chung với chồng. Trời mưa dưới biển mưa lên Trời mưa dưới biển mưa lên Số anh hai vợ mới nên cửa nhà Tài trai lấy năm lấy bảy Tài trai lấy năm lấy bảy Gái chính chuyên chỉ lấy một chồng Ấm oái như hai gái lấy một chồng Ấm oái như hai gái lấy một chồng Đàn ông chẳng xứng chút nào Đàn ông chẳng xứng chút nào, Vợ kia vợ nọ biết bao cho vừa Mây muốn mưa mà trời chưa có chuyển Mây muốn mưa mà trời chưa có chuyển Anh muốn gần nàng ngặt một kiểng hai quê Trèo lên cây chót vót cây khô, Trèo lên cây chót vót cây khô Ngó về đồng ruộng thấy bốn cô chưa chồng Cô Hai cấy lúa vừa xong Cô Ba chưa chồng bản ngản bơ ngơ Cô Tư tuổi hãy còn thơ Cô Năm còn dại còn khờ Tôi đây ở vậy mà chờ bốn cô Vái trời cho có lúa bồ Tôi qua cưới hết bốn cô đem về Cô Hai lo tảo bán tần Cô Ba xách nước, dưỡng thân mẹ già Cô Tư xách chổi chăn gà, chăn heo Cô Năm gá nghĩa tình chung với mình Năm thê bảy thiếp chúng mình đông vui Ai ơi chớ lấy chồng chung Ai ơi chớ lấy chồng chung Chồng chung hai vợ một mùng Day qua con vợ nọ, chọc khùng con vợ kia Trong làng bà Tú, bà Cai Trong làng bà Tú, bà Cai Có khôn thì lấy vợ hai cho chồng Trồng tre ngả ngọn xuống mương Trồng tre ngả ngọn xuống mương Hai dâu về tới, má thương dâu nào? – Dâu nào dâu nấy cũng thương Dâu cũ tầm thường, dâu mới má thương hơn Chị bảo tôi lấy làm Hai Chị bảo tôi lấy làm Hai Suốt một đêm dài chị nói vân vi Nhà chị chẳng thiếu thứ chi Muốn mặc của gì chị sắm cho ngay Bây giờ chị gọi bớ Hai! Mau mau trở dậy thái khoai đâm bèo Thưa chị cám bã còn nhiều Rau khoai em thái từ chiều hôm qua Xin chị cứ ở trong nhà Nồi cơm ấm nước đã là có em Đêm đêm chị nổi cơn ghen Chị phá bức thuận, chị len mình vào Tay chị cầm một con dao Chị nổi máu hồng bào, nhà cửa tan hoang Hầm hầm mặt đỏ như vang Chị la, năm bảy xã làng đổ ra Bà cả, bà bé, bà ba Bà cả, bà bé, bà ba Ba bà dắt díu tìm nhà bà tư Đêm khuya năm vợ ngồi hầu Đêm khuya năm vợ ngồi hầu, Vợ cả pha nước, têm trầu chàng xơi. Vợ hai trải chiếu chàng ngồi, Vợ ba coi sóc nhà ngoài, nhà trong. Vợ tư sửa soạn giăng mùng, Vợ năm dưới bếp trong lòng xót xa. Chè thưng, cháo đậu bưng ra, Chàng xơi một bát kẻo mà hết gân. Dị bản Đêm năm canh năm vợ ngồi hầu Vợ cả quạt nước têm trầu chàng xơi Vợ hai trải chiếu chia bài Vợ ba coi sóc nhà ngoài nhà trong Vợ tư sửa gối chăn mùng Vợ năm đứng đó trong lòng xót xa Chè thang cháo đậu bưng ra Chàng xơi một bát kẻo mà công lênh Một lu mà đựng hai đài Một lu mà đựng hai đài Một chàng hai thiếp ai hoài liệu sao? Một vợ thì nằm giường lèo Một vợ thì nằm giường lèo Có gối tai bèo, sáo rủ, màn treo Hai vợ thì nằm chèo queo Ba vợ thì xuống chuồng heo mà nằm Giàu chi anh mà đòi chính chính, hầu hầu Giàu chi anh mà đòi chính chính, hầu hầu Hôm qua đi ngang cửa ngõ, thấy anh ăn bát canh bầu thế cơm – Anh thường ăn cháo gà, cháo vịt, cháo thịt bồ câu Hôm qua trời nắng anh ăn bát canh bầu cho mát răng Anh cất nhà năm ba cái cửa Anh cất nhà năm ba cái cửa Lấy vợ này vợ nữa cũng xong Ai bày cái cảnh đa thê Ai bày cái cảnh đa thê Để cho phụ nữ trăm bề khổ đau Chị Cả đứng cạnh hàng rào Chị Cả đứng cạnh hàng rào Mong cho chị Bé bước vào cho mau Chị Cả cầm con dao cau Mong gặp chị Bé, đánh nhau phen này Vợ đôi chồng một lạ gì Vợ đôi chồng một lạ gì Mỗi người mỗi bụng ở thì sao nên Dị bản Vợ đôi chồng một ra gì Mỗi người mỗi bụng tao thích thì phá tan hoang Xuồng Thuyền nhỏ không có mái che phương ngữ Nam Bộ. Xuồng ba lá Bồ Đồ cỡ lớn đựng thóc lúa, thường đan bằng tre. Bồ và cối xay thóc Tảo tần Cũng như tần tảo, chỉ người phụ nữ khéo thu vén công việc trong nhà. Tần 苹 là bèo, tảo 藻 là rong, hai thứ rau cỏ mọc dưới nước, người Trung Hoa cổ dùng vào việc cúng tế. Thơ "Thái tần" trong Kinh Thi ca ngợi người vợ biết chu toàn việc cúng tế tổ tiên, viết "Vu dĩ thái tần, nam giản chi tân. Vu dĩ thái tảo, vu bỉ hành lạo" Hái bèo ở đâu, bên bờ khe nam. Hái rong ở đâu, bên lạch nước kia. "Tảo tần" còn chỉ sự vất vả cực khổ. Chính chuyên Tiết hạnh, chung thủy với chồng từ Hán Việt. Ấm oái Từ mô phỏng tiếng kêu khi chòng ghẹo nhau. Một kiểng hai huê Cũng phát âm thành "một kiểng hai quê" ở Nam Bộ, nghĩa là một cây cảnh có hai bông hoa, nghĩa bóng chỉ chuyện một chồng hai vợ. Gá nghĩa Kết nghĩa gá nghĩa vợ chồng, gá nghĩa anh em, tiếng miền Nam còn đọc trại thành gá ngãi. Tú tài Trong thời kì phong kiến, tú tài là danh hiệu dành cho người thi hương đỗ dưới hàng cử nhân. Người đỗ tú tài thường được gọi là ông Tú, cậu Tú. Vợ họ thì được gọi là cô Tú hoặc bà Tú. Cai Từ gọi tắt của cai vệ, chức danh chỉ huy một tốp lính dưới thời thực dân Pháp. Lính lệ Vân vi Đầu đuôi câu chuyện, đầu đuôi sự tình từ cũ. Đâm Giã, như đâm bèo, đâm tiêu... phương ngữ. Bức thuận Bức vách ngăn giữa các gian, phòng trong những công trình cổ, thường được chạm trổ tinh xảo để trang trí. Tô mộc Còn gọi là vang, tô phượng, vang nhuộm, co vang, mạy vang, một loại cây thân gỗ nhỏ, rất rắn, có phần đỏ nâu ở phần lõi và trắng ở phần ngoài. Gỗ cây được dùng làm vị thuốc đông y, hay làm thuốc nhuộm đỏ. Ở nước ta gỗ tô mộc còn được sử dụng như một thành phần nấu nước rửa hài cốt khi cải táng. Phần lõi gỗ được dùng trong chạm khắc mĩ nghệ. Cây vang Gỗ vang Têm trầu Quệt vôi vào lá trầu không, cuộn lại rồi cài chặt lại bằng cuống lá để thành một miếng trầu vừa miệng ăn. Têm trầu Trầu têm cánh phượng Chè thưng Một món chè thập cẩm phổ biến ở miền Nam. Tùy ý thích người nấu, các loại đậu hay khoai trong món chè thưng có thể thay đổi, nhưng các nguyên liệu được xem cố định là bột báng, rong biển, lá dứa và nước cốt dừa. Chè thưng Công lênh Cũng đọc công linh, công sức bỏ vào việc gì từ cổ. Đài Cái gàu con dùng để kéo nước giếng. Người ta thường làm đài bằng mo cau gấp lại ở hai đầu, cán làm bằng hai thanh tre kẹp lại, gọi là bồ đài. Thiếp Từ Hán Việt chỉ người vợ lẽ, hoặc cách người phụ nữ ngày xưa dùng để tự xưng một cách nhún nhường. Ai hoài Buồn thương và nhớ da diết từ cũ, dùng trong văn chương. Giường lèo Loại giường bằng gỗ quý, chạm trổ công phu, có nguồn gốc từ Lào. Trước đây loại giường này thường được các nhà quyền quý đặt thợ người Lào làm, nên gọi là giường lèo đọc trại chữ Lào. Sau này thợ của ta cũng làm được loại giường này, nhưng vẫn giữ tên giường lèo. Sáo Còn gọi là mành sáo, là tấm đan bằng tre, có nan to, thường treo trước nhà hoặc gần cửa sổ để che nắng. Sáo cũng có thể được treo trước bàn thờ. Mành sáo Chi Gì phương ngữ Trung và Nam Bộ. Đa thê Nhiều vợ từ Hán Việt. Dao cau Thứ dao nhỏ và sắc, dùng để bổ cau. Dao cau Khi hát bài chòi, bài này được dùng để báo con Ba Bụng.
một vợ nằm giường lèo